Theo số liệu thống kê, tính đến 31 tháng 12 năm 2023, cả nước có khoảng trên 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên, trong đó có 28,3%, tương đương gần 2 triệu trẻ em [1]. Trong đó, các em bị tật nguyền chủ yếu ở các dạng như: điếc (khuyết tật thính giác, mất khả năng nghe); mù, lòa (khuyết tật thị giác - khiếm thị); què, quặt, liệt (khuyết tật vận động, bị tổn thương các cơ quan vận động như tay, chân, cột sống gây ra khó khăn trong việc cầm nắm, đi lại, đứng, ngồi hay nằm); câm (khuyết tật ngôn ngữ, bị tật ở cơ quan tiếp nhận chỉ huy ngôn ngữ vùng não và tổn thương của bộ phận phát âm làm ảnh hưởng đến ngôn ngữ giao tiếp của trẻ; thiểu năng não (khuyết tật trí tuệ, suy giảm năng lực nhận thức, chỉ số thông minh thấp, trẻ không thích nghi được các hoạt động xã hội); đa tật (bị nhiều loại khuyết tật cùng lúc)....
Theo số liệu thống kê, tính đến 31 tháng 12 năm 2023, cả nước có khoảng trên 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên, trong đó có 28,3%, tương đương gần 2 triệu trẻ em [1]. Trong đó, các em bị tật nguyền chủ yếu ở các dạng như: điếc (khuyết tật thính giác, mất khả năng nghe); mù, lòa (khuyết tật thị giác - khiếm thị); què, quặt, liệt (khuyết tật vận động, bị tổn thương các cơ quan vận động như tay, chân, cột sống gây ra khó khăn trong việc cầm nắm, đi lại, đứng, ngồi hay nằm); câm (khuyết tật ngôn ngữ, bị tật ở cơ quan tiếp nhận chỉ huy ngôn ngữ vùng não và tổn thương của bộ phận phát âm làm ảnh hưởng đến ngôn ngữ giao tiếp của trẻ; thiểu năng não (khuyết tật trí tuệ, suy giảm năng lực nhận thức, chỉ số thông minh thấp, trẻ không thích nghi được các hoạt động xã hội); đa tật (bị nhiều loại khuyết tật cùng lúc)....
Căn cứ tại khoản 2 Điều 20 Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định về chế độ đối với hộ gia đình, cá nhân chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội như sau:
Chế độ đối với hộ gia đình, cá nhân chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng
2. Hỗ trợ kinh phí chăm sóc, nuôi dưỡng hàng tháng thấp nhất cho mỗi đối tượng quy định tại khoản 6 Điều 5 Nghị định này bằng mức chuẩn trợ giúp xã hội quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định này nhân với hệ số tương ứng theo quy định sau đây:
a) Mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được quy định như sau:
- Hệ số 1,5 đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang mang thai hoặc nuôi một con dưới 36 tháng tuổi;
- Hệ số 2,0 đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang mang thai và nuôi một con dưới 36 tháng tuổi hoặc nuôi hai con dưới 36 tháng tuổi trở lên;
Trường hợp người khuyết tật thuộc diện hưởng các hệ số khác nhau quy định tại điểm này thì chỉ được hưởng một hệ số cao nhất;
Trường hợp cả vợ và chồng là người khuyết tật thuộc diện hưởng hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng quy định tại điểm này thì chỉ được hưởng một suất hỗ trợ kinh phí chăm sóc.
b) Trường hợp người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang hưởng trợ cấp xã hội quy định tại khoản 6 Điều 5 Nghị định này nhưng mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì vẫn được hưởng kinh phí hỗ trợ chăm sóc quy định tại điểm a khoản 2 Điều này.
c) Hộ gia đình đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng mỗi một người khuyết tật đặc biệt nặng được hưởng kinh phí hỗ trợ chăm sóc hệ số một (1,0).
d) Hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc với hệ số được quy định như sau:
- Hệ số 1,5 đối với trường hợp nhận chăm sóc, nuôi dưỡng mỗi một người khuyết tật đặc biệt nặng;
- Hệ số 2,5 đối với trường hợp nhận chăm sóc, nuôi dưỡng mỗi một trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng.
Như vậy, người chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng khuyết tật nặng không được hưởng chế độ mà chỉ có người chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng bị khuyết tật đặc biệt nặng mới được hưởng các chế độ kinh phí hỗ trợ cho người nuôi dưỡng, chăm sóc cho đối tượng bảo trợ xã hội.
Xem thêm: Chế độ cho người chăm sóc người khuyết tật
Trên đây là nội dung tư vấn cho câu hỏi "Người chăm sóc người khuyết tật nặng có được hưởng chế độ nào không?" dựa trên những thông tin mà luật sư đã nhận được. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan, vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn
Quý khách có bất kỳ vấn đề nào cần tư vấn, hãy đặt câu hỏi cho các luật sư để được tư vấn một cách nhanh chóng nhất!
(HNM) - Thành phố Hà Nội luôn quan tâm, chăm lo người cao tuổi và trợ giúp người khuyết tật với nhiều kết quả đáng ghi nhận. Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội Nguyễn Hồng Dân đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Hànộimới về nội dung này.
- Việc thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội, chăm sóc người cao tuổi của thành phố Hà Nội thời gian qua đã đạt kết quả khả quan. Xin ông chia sẻ thêm về việc này?
- Quan tâm, chăm lo người cao tuổi là việc làm thường xuyên, liên tục của thành phố. Toàn thành phố hiện có 1.069.456 người cao tuổi, chiếm 12,8% dân số. Người cao tuổi được hưởng đầy đủ các chính sách theo quy định như lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, cấp thẻ bảo hiểm y tế, đi xe buýt miễn phí... Tiếp tục triển khai Chương trình hành động quốc gia người cao tuổi, trong năm 2022, Hà Nội đã thực hiện trợ cấp hằng tháng cho 93.256 người cao tuổi, trong đó có 92.166 người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội; 299 người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có quyền và nghĩa vụ phụng dưỡng; trợ giúp khó khăn đột xuất cho 16.916 người cao tuổi. 175 hộ gia đình có người cao tuổi được hỗ trợ về nhà ở; 82 người cao tuổi cô đơn thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội của thành phố…
Cuối năm 2022, theo tổng hợp báo cáo của các quận, huyện, thị xã, toàn thành phố có 955 người cao tuổi tròn 100 tuổi và 9.075 người cao tuổi tròn 90 tuổi. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã báo cáo UBND thành phố trình Văn phòng Chủ tịch nước tặng thiệp mừng thọ cho người tròn 100 tuổi; trình Chủ tịch UBND thành phố ký tặng thiệp mừng thọ cho người tròn 90 tuổi vào dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023.
Đáng chú ý, nhân dịp Tết Quý Mão 2023, toàn thành phố đã trao tặng 1.625.772 suất quà đến các đối tượng xã hội với số tiền 813,8 tỷ đồng, trong đó có các suất quà giá trị dành tặng cho người cao tuổi, người khuyết tật, bởi đây là những đối tượng xã hội được thành phố quan tâm, góp phần thực hiện tốt Kế hoạch số 329/KH-UBND ngày 16-12-2022 của UBND thành phố Hà Nội.
- Đối với công tác trợ giúp người khuyết tật, thành phố Hà Nội đã có những chế độ, chính sách gì, thưa ông?
- Hiện nay, thành phố có 111.173 người khuyết tật, chiếm 1,33% dân số. Người khuyết tật được hưởng đầy đủ các chính sách theo quy định, như trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập đối với học sinh khuyết tật, đi xe buýt miễn phí, vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội... Trong năm 2022, thành phố đã thực hiện chi trả trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng cho 90.292 người khuyết tật đặc biệt nặng và nặng; 14.198 hộ gia đình nhận nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặng được nhận trợ cấp theo quy định hiện hành; 100% người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí.
Thành phố có 7 cơ sở được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội ra quyết định công nhận là cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật, được hưởng các chính sách ưu đãi như được vay vốn, miễn thuế thu nhập, tham gia các hoạt động giới thiệu sản phẩm tại các lễ kỷ niệm, ngày hội, tọa đàm các mô hình doanh nghiệp tạo việc làm cho người khuyết tật.
Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật được nâng cao, bản thân họ đã tự tin, nỗ lực phấn đấu học tập, làm việc để cải thiện cho cuộc sống của chính họ và giúp đỡ gia đình, tham gia vào các hoạt động xã hội, hòa nhập cuộc sống cộng đồng.
- Trong năm 2023, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội sẽ thực hiện những giải pháp nào để người khuyết tật, người cao tuổi tiếp tục được tiếp cận các dịch vụ xã hội dưới các hình thức khác nhau, thưa ông?
- Trong năm 2023, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội tiếp tục thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách đối với người cao tuổi, người khuyết tật; đồng thời, tập trung đánh giá kết quả thực hiện Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền; đẩy mạnh việc phối hợp, triển khai thực hiện mục tiêu 100% người cao tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế; xây dựng và thực hiện các mô hình câu lạc bộ liên thế hệ giúp đỡ nhau và các mô hình trợ giúp người khuyết tật.